1.(H_qhx) 4.(H_stls) 10.(H_mt) 11.(H_qh)

Friday, June 1, 2007

"THƯ CỦA BAN CHẤP HÀNH QUỐC TẾ CỘNG SẢN GỬI CÁC NHÓM CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VỀ VẤN ĐỀ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG" (27.10.1929)

"THƯ CỦA BAN CHẤP HÀNH QUỐC TẾ CỘNG SẢN GỬI CÁC NHÓM CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VỀ VẤN ĐỀ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG" (27.10.1929):

bức thư đã phân tích tình hình cách mạng quốc tế, sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Đông Dương, sự cần thiết phải có một đảng cộng sản duy nhất, sự tai hại và nguy hiểm của tình trạng tồn tại nhiều tổ chức cộng sản biệt lập. "Nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản ở Đông Dương, chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Thư này chưa đến với Nguyễn Ái Quốc, song với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương nên Người đã chủ động triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp từ ngày 6.1.1930 để bàn việc thống nhất thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1350aWQ9ODgyNyZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----
"TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN":
cương lĩnh của "Đồng minh những người cộng sản" do Mac và Enghen soạn thảo, công bố lần đầu tiên vào 2.1848 ở Luân Đôn. "TNCĐCS" gồm lời mở đầu và bốn chương nêu lên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học; sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và sức sản xuất tất yếu dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Sứ mạng lịch sử của giai cấp vô sản là "người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản" và "người xây dựng chủ nghĩa xã hội ". Tuyên ngôn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản và bộ tham mưu là đảng cộng sản. Muốn giải phóng mình, phải dùng bạo lực cách mạng để giành và nắm chính quyền, thiết lập sự đoàn kết quốc tế theo khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại". "TNCĐCS" là văn kiện có tính chất cương lĩnh, lần đầu tiên nêu ra những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12C5aWQ9NDI4MSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1

----
"TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG 1929":
công bố sau khi đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp ở Hương Cảng (5.1929) về nước. Ngày 17.6.1929, tại Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Miền Bắc họp quyết định lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng), thông qua tuyên ngôn của Đảng... Tuyên ngôn nêu rõ mục đích của Đảng là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, chế độ phong kiến, giải phóng công nhân, nông dân, thành lập chuyên chính vô sản, tiêu diệt giai cấp, thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái. Tuyên ngôn gồm 2 chương. Chương thứ nhất giải thích chủ nghĩa cộng sản. Chương thứ hai nói về chính sách của Đảng. Tuyên ngôn chỉ rõ cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ, nhiệm vụ của nó là đánh đuổi được đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập, đánh đổ địa chủ, phong kiến, thực hiện cách mạng thổ địa, lập chính phủ công nông binh, do giai cấp vô sản lãnh đạo, khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng dùng chính sách thống nhất các giai cấp, đảng phái để chống đế quốc; khi thời cơ đến, giai cấp thống trị đã rối loạn, quần chúng sôi sục cách mạng sẵn sàng hi sinh, Đảng sẽ đưa quần chúng ra đấu tranh giành chính quyền, thành lập chính phủ xô viết công nông binh. Đây là một văn kiện có tính chất cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12DBaWQ9NDI4MiZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----
"THƯ NGỎ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG GỬI CÁC ĐẢNG PHÁI" (8.1936):

thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi đến Việt Nam Quốc dân Đảng, các đảng cách mạng, đảng lập hiến, các nhóm cải lương dân chủ, hội ái hữu, tổ chức công nông binh, phụ nữ, sinh viên, người buôn bán, các báo chí, tổ chức quần chúng và toàn thể nhân dân Đông Dương vào 8.1936. Bức thư trình bày lập trường của Đảng về Đông Dương Đại hội, nêu ra 12 nguyện vọng làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội thảo luận để tiến tới soạn thảo tập "Dân nguyện" gửi Chính phủ Pháp, đồng thời kêu gọi thành lập các uỷ ban hành động ở khắp nơi để tập hợp lực lượng tiến tới Đông Dương Đại hội.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12E1aWQ9NzA2MCZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----
TƯ BẢN:

nghĩa thông thường là vốn. Theo nghĩa rộng, là sự đầu tư của nhà kinh doanh vào doanh nghiệp sản xuất, thương mại, dịch vụ hay bất cứ một ngành hoạt động nào. Tỉ suất sinh lợi của TB (vốn) là yếu tố biểu hiện và quyết định của tỉ lệ tăng trưởng của nền kinh tế một nước, trên cơ sở gia tăng tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, xét trên quy mô của toàn xã hội, của nhà nước và của tư nhân. Theo kinh tế học macxit, TB là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê; TB không phải là vật mà là quan hệ xã hội, là phạm trù kinh tế chủ yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quan hệ xã hội giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, quan hệ nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê. Mac đã phân TB thành TB bất biến và TB khả biến. Còn có thể phân thành TB cố định và TB lưu động (cg. TB kĩ thuật), TB công nghiệp, TB thương nghiệp, TB tài chính, TB cho vay, TB sản xuất, TB hàng hoá, TB tiền tệ, vv. Xt. Chủ nghĩa tư bản.

---
TƯ BẢN LŨNG ĐOẠN:
liên minh hoặc tập đoàn của những nhà tư bản lớn, ra đời là quá trình tất yếu của quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức cao vào những năm cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, đưa chủ nghĩa tư bản phát triển lên một giai đoạn mới, giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thay thế cho chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Những thay đổi khách quan trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với sự phát triển nhanh của kĩ thuật và công nghiệp đòi hỏi phải mở rộng quy mô sản xuất, đồng thời nhiều ngành sản xuất mới ra đời, đưa tới việc tích tụ sản xuất ở những xí nghiệp lớn và sự ra đời của các công ti cổ phần với việc tập trung tư bản. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tư bản dẫn tới hình thành các công ti và nhóm công ti khổng lồ (tơrơt, cacten, xanhđica) có thể tự mình cấu kết với nhau chiếm độc quyền trong một ngành, một lĩnh vực sản xuất nào đó. Độc quyền sản xuất đi liền với việc tập trung và tích tụ của tư bản ngân hàng, hình thành một nhóm nhỏ các nhà tư bản ngân hàng có thể kiểm soát phần lớn các hoạt động ngân hàng và tài chính. Quá trình này dẫn đến sự phối hợp giữa các tổ chức tư bản độc quyền trong công nghiệp với các nhà tư bản ngân hàng lớn làm hình thành tư bản tài chính. Tư bản tài chính đánh dấu mức cao nhất của quá trình tích tụ, tập trung tư bản, đánh dấu sự thống trị của các trùm tài phiệt trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển, chấm dứt giai đoạn tự do cạnh tranh. Sự hình thành các tổ chức tư bản độc quyền cho phép các nhà tư bản thu được lợi nhuận độc quyền cao hơn lợi nhuận trung bình, đồng thời cũng đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với sự ra đời của các công ti siêu quốc gia, đa quốc gia trên cơ sở tăng cường xuất khẩu tư bản. Quá trình này cũng làm hình thành các liên minh kinh tế giữa các nước tư bản phát triển như: Khối Thị trường chung Châu Âu (EEC), Hội nghị bảy nước tư bản phát triển nhất (G7)... với mục đích thoả thuận phân chia thị trường, thoả thuận về thuế quan, về chính sách bảo hộ, vv. Sự hình thành các tổ chức độc quyền đã làm thay đổi căn bản cơ chế vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới gay gắt giữa các tổ chức độc quyền với nhau và giữa các quốc gia tư bản phát triển, khiến nhà nước phải can thiệp vào kinh tế và trở thành công cụ trong tay các tổ chức độc quyền (chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước). Chủ nghĩa tư bản độc quyền, một mặt tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với quá trình quốc tế hoá sâu rộng, mặt khác làm tăng thêm những mâu thuẫn tiềm tàng của nó, dẫn đến bùng nổ hai cuộc Chiến tranh thế giới I và II. Ngày nay, tuy khả năng xảy ra chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi nhưng những mâu thuẫn gay gắt về kinh tế giữa các trung tâm tư bản lớn (Hoa Kì, Tây Âu, Nhật Bản) vẫn đang diễn ra biến thành những cuộc chiến tranh buôn bán kéo dài.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12C6aWQ9NDM1MSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1

----
TƯ CÁCH BẦU CỬ:
tiêu chuẩn xác định quyền bầu cử của công dân, được quy định trong hiến pháp. Ở một số nước tư bản chủ nghĩa, TCBC được xác định bằng: tư cách tài sản, tư cách học vấn, tư cách tuổi tác, tư cách cư trú, có nước còn quy định thêm tư cách về giới (phụ nữ không có quyền bầu cử), tư cách về chủng tộc, dân tộc. Đây là những quy định ngặt nghèo nhằm hạn chế quyền bầu cử của những người lao động bình thường, điển hình là chế độ đại cử tri ở Mĩ. Ở Việt Nam, các loại tư cách nói trên bị hoàn toàn xoá bỏ, tất cả các công dân trên 18 tuổi đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người bị toà án tước quyền công dân
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12EDaWQ9NDM2MyZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----
TƯ CÁCH ĐẢNG VIÊN:
những điều cần có về giác ngộ chính trị, về phẩm chất, năng lực, trình độ và kết quả hoạt động chính trị - xã hội... để xứng đáng là đảng viên của một đảng. Chỉ có các đảng chính trị có tổ chức chặt chẽ mới có những quy định chặt chẽ về TCĐV. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: đảng viên phải có giác ngộ về lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, trung thành với tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, gương mẫu và phát huy tác dụng tích cực trong lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập, có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12C8aWQ9NDM2NSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----
TƯ SẢN DÂN TỘC:
một bộ phận của giai cấp tư sản ở các nước kém phát triển, đang hoặc đã từng là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc có tinh thần dân tộc, quan tâm đến sự phát triển độc lập về kinh tế và chính trị của đất nước, khác với tư sản mại bản. TSDT, xét về mặt bản chất xã hội, có hai mặt; điều đó đặc biệt bộc lộ rõ sau khi giành được độc lập dân tộc. Một mặt, họ chịu ách thống trị của các tổ chức độc quyền đế quốc, mặt khác, chính họ là người bóc lột nhân dân lao động trong nước. Ở một số nước, TSDT là lực lượng lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, bản chất hai mặt của họ đã dẫn họ đến khuynh hướng thoả hiệp, không dám tiến hành các cuộc cách mạng và cải cách triệt để. Sự ra đời, phát triển của giai cấp tư sản dân tộc và vai trò lịch sử của nó phụ thuộc rất lớn vào tiến trình lịch sử của mỗi nước và bối cảnh quốc tế. Ở Việt Nam, TSDT bắt đầu xuất hiện và hình thành song song với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vốn có ý thức dân tộc, họ đã đứng ra thành lập các xí nghiệp, công ti, hội buôn kinh doanh độc lập, với mưu đồ phát triển tiềm lực kinh tế đất nước, cạnh tranh với tư bản nước ngoài. Nhưng là một đứa con sinh sau đẻ muộn của chế độ thực dân yếu ớt về mọi mặt, họ nhanh chóng bị các thế lực tư bản chính quốc chèn ép và chi phối, chỉ tồn tại được trong sự lệ thuộc nặng nề vào tư bản chính quốc. Về mặt chính trị, giai cấp TSDT Việt Nam đã có một vị trí nhất định trên vũ đài chính trị vào những năm 1920. Nhưng cũng như trong kinh tế, vai trò chính trị của họ với tư cách là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc Khởi nghĩa Yên Bái (1930) và sự tan rã của Việt Nam Quốc dân Đảng.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12BBaWQ9NDM4OCZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
---

TƯ SẢN MẠI BẢN:
bộ phận thoả hiệp của giai cấp tư sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm trung gian giữa tư bản nước ngoài và thị trường trong nước, gắn chặt lợi ích của mình với lợi ích của tư bản nước ngoài, thực chất là làm tay sai cho các thế lực đế quốc bóc lột nước mình. TSMB một mặt cấu kết chặt chẽ với tư bản nước ngoài, mặt khác cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến phản động trong nước để bóc lột nhân dân lao động, duy trì địa vị và lợi ích của mình. Vì vậy, TSMB cũng là đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, TSMB xuất hiện dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp đầu thế kỉ 20, đã hoàn toàn xoá bỏ về mặt chính trị và kinh tế sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Bắc (1954) và trên cả nước (1975).
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12CBaWQ9NDM4OSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
---
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Sự hình thành và phát triển TTHCM gắn với các thời kì hoạt động của Người trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế. Đó là thời kì hình thành tư tưởng yêu nước; thời kì đi tìm con đường cứu nước (1911 - 20); thời kì hình thành về cơ bản con đường cách mạng Việt Nam (1921 - 30); thời kì kiểm nghiệm, khẳng định và phát triển (1930 - 45); thời kì phát triển và thắng lợi (1945 - 69). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ Đảng: "Đảng lấy chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...".

Toàn bộ tác phẩm của Người, nhất là "Tuyên ngôn độc lập" và "Bản Di chúc", là một di sản tư tưởng vô giá Người đã để lại cho nhân dân ta. Từ những năm 1923 - 24 qua "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ" và những bài viết về Lênin, một số bài trả lời phỏng vấn, ở Người đã sớm hình thành một thái độ độc lập, sáng tạo trong nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mac, biểu thị một nhân cách, một phong thái sống và ứng xử của "một con người mới" trong một "xã hội tương lai".

TTHCM soi đường cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và tính thời đại sâu sắc, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa Mac - Lênin, TTHCM là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân Việt Nam.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12CBaWQ9NDM5NSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
---
TƯỚC ĐOẠT:
dùng sức mạnh và quyền hành cưỡng chế để chiếm đoạt sở hữu của người khác (có bồi thường một phần hoặc không bồi thường) nhằm phục vụ lợi ích của một giai cấp nào đó hoặc của toàn xã hội. Cần phân biệt sự TĐ có tính chất cướp bóc, vì lợi ích cá nhân hoặc của một nhóm người với sự TĐ chính đáng vì sự công bằng trong xã hội. Trong lịch sử loài người đã diễn ra một số cuộc TĐ lớn. Trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã chiếm đoạt hàng loạt tài sản của những người sở hữu nhỏ, nông dân, biến họ thành những người vô sản phải bán sức lao động để kiếm ăn. Chủ nghĩa đế quốc TĐ hàng loạt các dân tộc thuộc địa trong chính sách thực dân cũ và mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc TĐ những kẻ đi TĐ, trả lại những tư liệu sản xuất, của cải cho nhân dân lao động từ tay giai cấp tư sản, thay thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bằng chế độ công hữu dưới nhiều hình thức.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=12D0aWQ9NDU3MSZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
---
"TỰ CHỈ TRÍCH":
tác phẩm của Nguyễn Văn Cừ với bút danh là Trí Cường, tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1938 đến hết 1940, viết tại Hà Nội và do Nhà xuất bản Dân chúng của Đảng phát hành 20.7.1939. Sách gồm 4 phần: 1) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng. 2) Một vài bài học nữa về cuộc tuyển cử cần vạch rõ. Mặt trận Dân chủ chưa thành lập được là vì ta chưa mạnh. Những khuyết điểm và cách tuyên truyền và ứng dụng chính sách của Đảng. Đừng khinh thường nạn tơrôxkit. 3) Đấu tranh để bảo vệ đường lối Mặt trận Dân chủ của Đảng, chống tả khuynh và hữu khuynh. 4) Tóm tắt đường lối chiến lược và sách lược của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Tác phẩm ra đời nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng là thống nhất quan điểm đánh giá về cuộc tranh cử Hội đồng Quản hạt ở Nam Kỳ và về xây dựng Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=132BaWQ9NDUwNiZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
----

VÔ SẢN:
khái niệm chung để gọi những người không có tư liệu sản xuất, phải đi làm thuê hoặc sống nhờ vào người khác: 1) Theo cải cách của Xecviut Tuliut (Servius Tullius; thế kỉ 6 tCn.) ở Rôma cổ đại, VS là những người nghèo, hoặc không có tài sản, không thuộc 5 đẳng cấp hữu sản của xã hội. 2) Từ chỉ tầng lớp VS ăn bám thời hậu kì đế chế La Mã ở một số nước Châu Âu thời trung đại (x. Vô sản ăn bám). 3) Trong xã hội tư bản, VS là những người công nhân làm thuê. Xuất thân từ nông dân và thợ thủ công mất tư liệu sản xuất, giai cấp VS dần hình thành trong quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Sau thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản, VS trở thành một trong hai giai cấp cơ bản của chế độ tư bản chủ nghĩa. Họ luôn đấu tranh chống chế độ bóc lột và sự bất công của chủ nghĩa tư bản.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1360aWQ9MjcyNiZncm91cGlkPTQma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1

----
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN, NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG THƯỜNG XUYÊN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN TA

Trần Đức Lương - Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(Cập nhật: 18/1/2007)


Trước hết cần khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một Nhà nước đại đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Một Nhà nước khác về chất so với Nhà nước pháp quyền tư sản chứa đựng thuộc tính bất bình đẳng, áp bức, bất công đã không được nhân dân ta lựa chọn.

Ý tưởng xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng ta từ hồi còn hoạt động bí mật ; sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ý tưởng này đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp theo được thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1959, 1980. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định : "Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử". Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đều khẳng định : "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước và cán bộ viên chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.

Hiến pháp và pháp luật nước ta xác nhận quyền của công dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đảm bảo mọi quyền tự do cơ bản trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo. Các quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước và là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy việc chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người ; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ; đổi mới thể chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân ; thực hiện tốt Quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức,... là những nội dung hết sức quan trọng của việc thực thi Hiến pháp và pháp luật.

Quyền lực Nhà nước ở nước ta là quyền lực Nhà nước thống nhất. Đó là sự thống nhất ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo thể chế tổ chức thì quyền lực Nhà nước tập trung vào những cơ quan đại diện cho nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra và do đó là quyền lực của nhân dân giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp ; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước và những vấn đề quốc kế dân sinh về đối nội, đối ngoại quan trọng nhất ; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Các cơ quan và những người có chức vụ cao nhất ấy phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.

Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền : lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng cũng nhằm đảm bảo cho sự phân công và phối hợp đó được thông suốt, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đưa Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.

Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống luật pháp cũng như những yêu cầu mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hợp tác và hội nhập quốc tế. Lập pháp một mặt phải giải quyết cho được nhiệm vụ thiết kế và từng bước hoàn chỉnh hệ thống các bộ luật điều chỉnh được tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, mặt khác phải xác định cho được những thứ tự ưu tiên cần thiết, nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó vừa phải bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa đảm bảo tính khoa học, tính chuyên môn pháp lý của các quy định, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật và tổ chức thực thi pháp luật.

Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước của nước ta còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhiều hạn chế trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Phong cách làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đặt thành một nhiệm vụ chiến lược cần được xem xét trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng cho được một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa.

Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực Nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị. Sự phân công, phân cấp ấy phải dựa trên cơ sở khuyến khích, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các bộ phận hợp thành và các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Về lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, tính công khai, minh bạch trong hoạt động bảo vệ pháp luật, về nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý đúng và nghiêm minh, tăng cường bảo vệ các quyền chính đáng và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong xã hội, đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, ngăn chặn oan, sai trong các khâu điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong việc củng cố kiện toàn các cơ quan tư pháp, nhìn chung sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với khâu trọng yếu này chưa ngang tầm cả về mặt tổ chức, cán bộ cũng như điều kiện hoạt động của hệ thống tư pháp. Hoạt động của các cơ quan tư pháp nước nhà còn nhiều bất cập, sai sót. Việc kiện toàn và nâng cao chất lượng các hoạt động tư pháp đã trở thành đòi hỏi bức xúc của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp đảm bảo tính công minh, khách quan và tính độc lập, giám sát lẫn nhau ở từng khâu của tiến trình tố tụng và từng cấp xét xử : điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đảm bảo công minh, chống oan sai ; nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.

Trong thời kỳ đất nước ta còn chưa giành được độc lập, trong "Yêu sách của nhân dân An Nam" đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã từng đưa ra yêu cầu "phải thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đề cao vai trò của chế độ pháp quyền. Người từng nói : "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Vì thế, chỉ một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã khẳng định : "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ cương. Pháp luật thể chế hóa yêu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và các thiết chế Nhà nước. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh của xã hội. Nhà nước làm ra và ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự ràng buộc thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh.

Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý của họ phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật, pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, tổ chức tốt các công tác tư vấn pháp luật cho mọi tổ chức và công dân, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy và trong đội ngũ cán bộ viên chức Nhà nước.

Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Trong một Nhà nước pháp quyền các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất quyền dân chủ của công dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước, pháp luật luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương phải được giữ vững. Đối với các cơ quan Nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện để phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, cần nhấn mạnh quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Các quyền đó phải có chế tài để đảm bảo thực quyền.

Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài ; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận có vai trò to lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc phải được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các quy chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.

Với tinh thần đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần phát huy đầy đủ vai trò đại diện nhân dân trong tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước ; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước ; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân ; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ; tham gia công tác hòa giải ; hướng dẫn và giúp đỡ Thanh tra nhân dân ở cơ sở.

Cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng : khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức, quan liêu, xa dân ; thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng đời sống văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương và địa bàn dân cư ; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình.

Trong thiết chế chính trị - xã hội của nước ta, không thể xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh nếu không xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo ý nghĩa đó, nhân dân ta đòi hỏi và đặt niềm tin vào cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng được Đảng phát động tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, coi đó là nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài phức tạp, vừa phải chống tư tưởng bảo thủ, vừa phải chống tư tưởng cực đoan và phải đi từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị. Cần kiên định các nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã đúc kết được, kiên quyết vạch trần và nghiêm khắc phê phán những luận điệu xuyên tạc của những phần tử thù địch. Với quyết tâm cháy bỏng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ; với sự lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta tin tưởng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân sẽ tiếp tục giành được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=17134687&News_ID=18157820
----

http://www.daihoccuunuoc.com/portal/modules.php?op=modload&name=News&file=article&sid=171&mode=thread&order=0&thold=0

No comments: