1.(H_qhx) 4.(H_stls) 10.(H_mt) 11.(H_qh)

Friday, June 1, 2007

Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân

Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất của đế quốc Mỹ ở miền Bắc (giữa 1965 đến 1968).
Ngày 21/3/2005. Cập nhật lúc 10h 17'

Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược ''Chiến tranh cục bộ''. Nội dung của chiến lược này là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; quân nguỵ làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 - 30 tháng (từ giữa 1965 đến 1967). Chúng đưa vào miền Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu. Đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch ''Sấm rền”, đánh phá ác liệt với mưu đồ ''đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá'', hòng ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam. Từ chỗ tập trung đánh phá vùng giới tuyến quân sự, đế quốc Mỹ đã leo thang mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc. Các tuyến đường bộ, đường sắt, cầu cống, cơ sở kinh tế, đê điều đập nước, bệnh viện, trại an dưỡng, trường học, nhà thờ, đền chùa, đều là mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ. Số bom của chúng ném xuống miền Bắc lớn hơn hai lần số bom của Mỹ và đồng mmh ném xuống khu vực Thái Bình Dương trong chiến thế giới thứ 2.

- Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng họp các hội nghị lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965), trên cơ sở phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, Trung ương khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

- Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, l0 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn''.

+ Trên hậu phương miền Bắc đã diễn ra sôi nổi các phong trào thi đua như ''Ba sẵn sàng'' của thanh niên, ''Ba đảm đang'' của phụ nữ, ''Tay búa, tay súng'' của công nhân, ''Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người'', ''Tay cày, tay súng'', ''Xe chưa qua, nhà không tiếc'' của nông dân, ''Ba quyết tâm'' của trí thức với khẩu hiệu ''Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đã tạo nên ý chí mới, sức mạnh mới trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Các đơn vị phòng không, không quân, hải quân đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương anh dũng đánh trả không quân, hải quân địch, giành thắng lợi vang dội. Trong 4 năm 1964-1968, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy 143 tàu chiến Mỹ, nguỵ, bảo đảm giao thông thông suốt, tăng cường sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam.

+ Trên chiến trường miền Nam, từ năm 1965 đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu cùng một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào trực tiếp tham chiến. Trước tình hình đó, các lực lượng vũ trang cách mạng đã tăng cường xây dựng lực lượng 3 thứ quân, đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực kết hợp với hoạt động tác chiến rộng khắp của bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Trong 2 năm 1965-1966 ta thành lập 3 sư đoàn bộ binh chủ lực (5, 7, 9) ở Nam Bộ, hai sư đoàn chủ lực (2, 3) ở Khu 5 và Sư đoàn l chủ lực ở Tây Nguyên. Vừa xây dựng vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các đợt tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ-nguỵ. Phong trào ''Dũng sĩ diệt Mỹ'', ''tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt'', ''Bám thắt lưng địch mà đánh'', ''Căng địch ra mà đánh, vây chúng lại mà diệt'', dấy lên khắp các chiến trường và các địa phương miền Nam. Mở đầu là chiến thắng Núi Thành của bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam (26/5/1965) đã chứng minh ta có đủ khả năng đánh bại lực lượng Mỹ tinh nhuệ, có số lượng đông, trang bị hiện đại, đồng thời củng cố thêm quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta. Chiến thắng Vạn Tường (18- 19/8/1965), thắng lợi của các chiến dịch Plây me (19/10-26/11/1965), Bầu Bàng - Dầu Tiếng (12/1l- 22/1l/1965) và tiếp đó là các chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966; 1966-1967) của Mỹ ở miền Nam, đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược.

Sau hai mùa khô thất bại nặng nề trên chiến trường Việt Nam và trước dư luận rộng rãi trên thế giới ngày càng phản đối Mỹ xâm lược Việt Nam, phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày càng phát triển rộng lớn ngay trong lòng nước Mỹ. Giới cầm quyền Mỹ bắt đầu dao động, lúng túng, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục tăng quân, chuẩn bị kế hoạch mở cuộc phản công lần thứ 3 với 120 vạn quân, trong đó có 50 vạn quân Mỹ.

Tình hình trên chiến trường lúc này, tuy Mỹ đã thua to nhưng vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược mà muốn đẩy chiến tranh lên mức độ cao hơn. Ta đã thắng lớn nhưng chưa làm chuyển biến cơ bản cục diện chiến trường có lợi cho ta. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 14 (l/1968) chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn giữa lúc đế quốc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, dao động và trong thời điểm rất nhạy cảm của năm bầu cử Tổng thống Mỹ, để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định, phải tạo được một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đêm 30 rạng 31/1/1968 (tức đêm mồng l rạng sáng mồng 2 tết Mậu Thân) các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đã tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hết cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ lẫn nguỵ; bao gồm 4 bộ tư lệnh quân khu, quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu nguỵ, 2 bộ tư lệnh dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn, trong đó có những trận gây chấn động lớn như đánh toà đại sứ Mỹ, dinh Độc lập nguỵ, Bộ tổng tham mưu nguỵ ở Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế. Nhiều cơ quan đầu não chỉ huy của địch, căn cứ quân sự và tuyến phòng thủ quan trọng của chúng bị tiêu diệt, hệ thống giao thông thuỷ bộ và mạng lưới thông tin liên lạc bị tê liệt. Quần chúng nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy mạnh mẽ, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược'', bức rứt nhiều hệ thống đồn bốt, giải phóng và giành quyền làm chủ, xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố hậu phương ta.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 của ta như ''Một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới. Sau 1 tháng, tướng Oét-mo-len, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức. Sau 2 tháng, ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải tuyên bố 4 điểm:

1- Chấm dứt việc đưa quân Mỹ vào miền Nam, trao dần vai trò chiến đấu trực tiếp cho quân đội Sài Gòn.

2- Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

3- Nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.

4- Không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai nữa.

Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược ''Chiến tranh cục bộ''.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 làm cho ý chí xâm lược của bọn cầm quyền Mỹ lung lay một bước nghiêm trọng; là bước phát triển tất yếu trong chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam. Đây là cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn ta đã làm thay đổi hẳn thế trận đưa chiến tranh vào tận sào huyệt cuối cùng của địch, mở ra cục diện mới, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc lần thứ l, buộc phải ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Ta có điều kiện mở ra mặt trận tiến công mới về ngoại giao ''vừa đánh vừa đàm”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại giao, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khởi đầu một quá trình đi xuống về chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ.

BTS

No comments: