1.(H_qhx) 4.(H_stls) 10.(H_mt) 11.(H_qh)

Sunday, May 20, 2007

cs : Bùi Trọng Liễu điểm lại những sự việc dẫn tới ngày Toàn quốc Kháng chiến (19.12.1946)

Bùi Trọng Liễu điểm lại những sự việc dẫn tới ngày Toàn quốc Kháng chiến (19.12.1946)

Cách đây 60 năm :
Những sự việc dẫn tới 19/12/1946
Bùi Trọng Liễu

Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 8/2/1966, [Tổng thống Pháp] Charles De Gaulle viết : « Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giằng xé đất nước Ngài hôm nay ». Trong ngôn ngữ của một chính khách lão luyện, đó phần nào là sự nhìn nhận (tuy muộn màng) trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1945-1946. (Nguồn : sách « Ngoại giao Việt Nam 1945-2000 », nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, trang 91). Bởi vì chiến tranh Pháp-Việt xảy ra thuở đó, khởi đầu chính vì đường lối do ông De Gaulle vạch ra thuở 1945 (và được các chính khách Pháp có đầu óc thực dân nối tiếp). Ông ta đã đổi ý (trở thành thuận) về nền độc lập thống nhất của Việt Nam vào lúc nào, để đi tới bài diễn văn của ông đọc tại Phnôm Pênh ngày 1/9/1966, thời Mỹ đang can thiệp ở Việt Nam?

Dưới đây là tóm tắt các sự việc theo thứ tự thời gian. (1)

- 9/3/1945 : Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương

- 10/3/1945 : Nhật tuyên bố giúp Việt Nam thực hiện độc lập (kỳ thật Nhật vẫn nắm thực quyền, và chỉ nhả những gì họ muốn nhả).

- 11/3/1945 : Triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ hiệp ước 1884 (hiệp ước nhận nền bảo hộ của Pháp) và khôi phục chủ quyền Việt Nam : Việt Nam « độc lập ».

- 24/3/1945 : Tướng Charles De Gaulle (Chủ tịch chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp, président du gouvernement provisoire de la République française từ 3/6/1944) tuyên bố : 5 xứ trong Liên bang Đông Dương (Bắc kỳ, Trung Kỳ, Nam kỳ, Mên, Lào) trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có một chính phủ liên bang đứng đầu là một viên toàn quyền Pháp và những bộ trưởng do viên này bổ nhiệm (2)...

- 17/4/1945 : Thành lập chính phủ Trần Trọng Kim. Tổng đốc Phan Kế Toại được cử làm Khâm sai Bắc Bộ.

- 20/7/1945 : Nhật trao trả cho Việt Nam các nhượng địa Pháp (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng). Mấy tuần sau (14-8), Nhật tuyên bố trao trả Nam Bộ cho Việt Nam, ông Nguyễn Văn Sâm được cử làm Khâm sai Nam Bộ.

- 15/8/1945 : Nhật đầu hàng Đồng Minh. Theo quyết định của Hội nghị Potsdam của tam cuờng (Mỹ, Anh, Liên Xô), thì (ở Việt Nam) nửa trên vĩ tuyến 16 sẽ do quân Trung Quốc (lúc đó còn dưới chế độ của Tưởng Giới Thạch; gọi tắt là Tàu Tưởng) kéo sang, và nửa dưới vĩ tuyến 16 sẽ do quân Anh kéo vào, trên nguyên tắc là để giải giáp quân Nhật. (Còn nguyện vọng chung của người Việt Nam, nghĩa là độc lập thống nhất, thì các cường quốc không chú ý đúng mức tới). Cũng khoảng ngày đó, De Gaulle cử đô đốc D'Argenlieu làm cao uỷ kiêm tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, với nhiệm vụ thực hiện điều tuyên bố ngày 24/3/1945 kể trên. Ngày 17/8/1945, tướng Leclerc được cử làm tư lệnh cao cấp quân đội Pháp ở Viễn Đông (commandant supérieur des troupes françaises en Extrême-Orient).

- 19/8/1945 : Cách mạng Tháng tám, Mặt trận Việt Minh giành chính quyền.

- 23/8/1945. Chính phủ lâm thời được thành lập. Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

- Cuối tháng 8 (khoảng 22/8/1945 hay sau đó ?), 3 toán sĩ quan Pháp nhẩy dù xuống Việt Nam : toán Messmer (3) xuống Bắc Bộ, toán Castella (4) xuống Trung Bộ (gần Huế), toán Cédile xuống Nam Bộ với nhiệm vụ lập lại chính quyền Pháp.

- 24/8/1945 : Vua Bảo Đại thoái vị, và sau trở thành Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

- 2/9/1945 : Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.

- 9/9/1945 : Quân Tàu bắt đầu tới Hà Nội.

- 12/9/1945 : Quân Anh-Ấn của tướng Gracey tới Sài Gòn.

- 18/9/1945 : Tướng Lư Hán, tư lệnh quân đội Trung Hoa vào Việt Nam (tổng quân số khoảng 20 vạn) tới Hà Nội.

- 22/9/1945 : Tướng Gracey ra lệnh giới nghiêm tại Sai Gòn-Chợ Lớn, và bắt đầu võ trang lại lính Pháp cũ ở Đông Dương, và giúp cho quân đội viễn chinh Pháp tới Sài Gòn (tướng Leclerc và một số quân tới Sài Gòn ngày 5/10/1945 và tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ), và đổ bộ lên Vũng Tàu (6/10/1945), vv.

- 9/10/1945 : Quân Pháp chiếm đóng Tây Ninh.

- 11/10/1945 : Bevin, ngoại trưởng Anh, tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Đông Dương.

- 12/10/1945 : Quân Anh-Ấn tới đóng ở Gia Định và Gò Vấp, và 22/10/1945, tới đóng ở Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

- 25/10/1945 : Quân Pháp chiếm đóng Mỹ Tho, 28/10/1945, chiếm đóng Gò Công, 29/10/1945 chiếm đóng Vĩnh Long, 30/10/1945 chiếm đóng Cần Thơ.

- 31/10/1945 : D’Argenlieu tới Sài Gòn cùng với tùy tùng và nhân viên phủ Cao ủy. Lúc đó ông De Gaulle muốn sử dụng giải pháp Vĩnh San (cựu hoàng Duy Tân).

- 14/12/1945 : ông De Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân và dự tính đưa ông ta về nước.

- 24/12/1945 : cựu hoàng Duy Tân bị tai nạn máy bay chết. (5)

- 6/1/1946 : Bàu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hai đảng đối lập là Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt (Việt Quốc) không chịu tham gia tổng tuyển cử, nhưng được dành cho một số đại biểu trong Quốc Hội : 20 ghế cho Việt Cách, 50 ghế cho Việt Quốc ; ngoài ra, còn dành 18 ghế cho Nam Bộ vì đang bị Pháp đánh phá, không tổ chức tổng tuyển cử được.

- 9/1/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Long Xuyên và Sa Đéc.

- 20/1/946, do thời cuộc ở Pháp, ông De Gaulle từ chức (và chỉ trở lại cầm quyền 13 năm sau, vào tháng 5/1958).

- 20/1/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Châu Đốc, Hà Tiên, 26/1/1946, chiếm đóng Rạch Giá.

- 28/1/1946 : Tướng Anh Gracey chuyển giao quyền hành cho quân đội Pháp và rời khỏi Sài Gòn.

- 4/2/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Cà Mau. D’Argenlieu lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ, do ủy viên cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ chủ tọa, với 4 hội viên Pháp và 9 hội viên Việt.

- 28/2/1946 : Pháp và Tàu Tưởng ký một hiệp ước (một thứ thoả thuận « trên lưng » Việt Nam): Pháp trả cho Tàu Tưởng các tô giới ở Thượng Hải, Quảng Châu, vv. (mà Trung quốc đã mất từ thế kỉ 19), bán rẻ cho Tàu Tưởng đoạn đường xe lửa Vân Nam nối với Việt Nam, trả cho Tàu Tưởng 60 triệu đồng/tháng tiền chi phí cho quân đội Tàu đang đóng ở Việt Nam. Ngược lại Tàu Tưởng sẽ để cho quân đội Pháp kéo vào trên vĩ tuyến 16, để thay thế quân Tàu Tưởng đang đóng trên đó. (6)

- 2/3/1946 : Thành lập Chính phủ Liên hiệp ở Hà Nội. Chủ tịch: Hồ Chí Minh ; Phó chủ tịch: Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) ; Cố vấn tối cao: Vĩnh Thuỵ (cựu hoàng Bảo Đại) ; với một số bộ trưởng gồm nhiều đảng phái như Nguyễn Tường Tam (Đại Việt), Chu Bá Phượng (Việt Quốc), vv.

- 6/3/1946 : Quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng.

Cùng ngày ấy, ký Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp ; phía Việt Nam, hai người ký là Hồ Chủ tịch và ông Vũ Hồng Khanh lãnh tụ Việt Quốc lúc đó đang là phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội mà chủ tịch là ông Võ Nguyên Giáp ; phía Pháp người ký là Sainteny: Pháp thừa nhận Việt Nam là một « quốc gia tự do » (Pháp không chấp nhận chữ « độc lập ») trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp. Sự thống nhất 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam) sẽ tuỳ cuộc trưng cầu dân ý. Có thêm một phụ lục: Quân đội Pháp đóng ở Việt Nam (quân số 15000) sẽ dần dần rút hết trong vòng 5 năm.(7)

- 16/3/1946 : Cụ Hồ gửi một « phái đoàn thân thiện » sang Trùng Khánh (thủ đô lúc bấy giờ của Tàu Tưởng) gặp Tưởng Giới Thạch; trưởng đoàn là Nghiêm Kế Tổ, một lãnh tụ của Việt Quốc, thứ trưởng ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp. Cùng đi với đoàn, có cựu hoàng Bảo Đại. Có lẽ là để làm nhẹ trọng lượng của sự « đồng loã » giữa Pháp và Tàu Tưởng, đồng thời để tránh việc Pháp có thể dùng cựu hoàng Bảo Đại. Tưởng Giới Thạch tiếp đoàn, nhưng không có kết quả. Ít ngày sau, phái đoàn trở về, nhưng cựu hoàng Bảo Đại ở lại Trung quốc (theo ông ta, thì có điện của Hồ chủ tịch bảo ông ta tạm ở lại đợi lệnh mới). Sau ông ta sang Hồng Kông.

- 18/3/1946 : Quân Pháp của tướng Leclerc tới Hà Nội.

- 20/3/1946 : Cédile, uỷ viên cộng hòa Pháp ở Nam Bộ (Commissaire de la République) muốn « điều đình » với Kháng chiến Nam Bộ với điều kiện là phía Kháng chiến phải nộp toàn bộ vũ khí. Phía Việt Nam không chịu.

- 22/3/1946 : Hồ chủ tịch ra vịnh Hạ Long gặp D’Argenlieu.

- 26/3/1946 : Bác sỹ Nguyễn Văn Thinh được Hội đồng tư vấn Nam Kỳ cử ra lập chánh phủ « nước Cộng hòa Nam Kỳ ». (8)

- 29/3/1946 : Quân Pháp kéo tới Huế.

- 7/4/1946 : Quân Pháp đến Nam Định.

- 10/4/1946 : Các viên chỉ huy quân sự của Pháp nhận thông tri mật : « tới đóng nơi nào, phải lập ngay kế hoạch phòng thủ và kiểm soát, rồi sắp đặt để biến dần các hoạt động quân sự thành một cuộc đảo chính (nguyên văn tiếng Pháp : étude d’une série de mesures qui doivent avoir effet de modifier progressivement et transformer le scénario qui est celui d’une opération purement militaire en scénario de coup d’Etat). (Bản thông tri mật này, phía Việt Nam chỉ lấy được trong cuộc chiến đấu ở Hải Phòng 7 tháng sau).

- 17/4/1946 : Hội nghị Việt-Pháp họp ở Đà Lạt để bàn về các vấn đề dự trù trong Hiệp định sơ bộ 6/3/46. Trưởng đoàn VN là Nguyễn Tường Tam (Đại Việt), lúc đó là bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong đoàn, gồm có những người như các ông Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, vv.

- 23/4/1946 : Một phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, sang Paris tiếp xúc với Quốc hội Pháp. Một phái đoàn khác ở Nam Kỳ, do Cédile, uỷ viên cộng hòa Pháp ở Nam Kỳ chỉ định, cũng sang Paris vận động cho Nam Kỳ tự trị.

- 12/5/1946 : Hội nghị Đà Lạt chấm dứt (thất bại vì Pháp vẫn muốn chi phối về mọi mặt).

- 14/5/1946 : D’Argenlieu tổ chức lễ tuyên thệ trung thành của một số đại diện các dân tộc thiểu số miền núi tại Ban Mê Thuật.

- 16/5/1946 : Phái đoàn Phạm Văn Đồng về nước.

- 19/5/1946 : D’Argenlieu tới Hà Nội gặp Hồ chủ tịch.

- 27/5/1946 : Hồ chủ tịch lên đường sang Pháp để mở cuộc đàm phán với chính phủ Pháp.

Cùng ngày ấy, D'Argenlieu, cao uỷ Pháp, thành lập một phủ uỷ viên phụ trách « Tây Kỳ », tức là « Khối dân tộc thiểu số miền Nam Đông Dương » (Commissariat pour les Populations Montagnardes du Sud-Indochinois : PMSI).

- 1/6/1946 : « Chánh phủ nước Cộng hòa Nam Kỳ » ra trình diện trước nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Pháp thừa nhận « nước này » là một quốc gia tự do, song việc bổ nhiệm các công chức cao cấp phải được sự đồng ý của ủy viên Cộng hòa Pháp.

- 8/6/1946 : Biểu tình lớn ở Hà Nội đòi Việt Nam thống nhất (ngày Nam Bộ).

- 10/6/1946 : Quân đội Tàu Tưởng bắt đầu rút khỏi Hà Nội, đem theo nhiều của cải hôi được.

- 18/6/1946 : Lính Pháp đột nhập đồn tự vệ ở Hải Phòng dòi thả một số nhân viên Pháp đã bị bắt giam.

- 21/6/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Pleiku và Kontum.

- 25/6/1946 : Tướng Lư Hán và bộ hạ về Tàu. Một hai ngày sau, Nguyễn Hải Thần và một số lãnh tụ Việt Cách, Việt Quốc, trở sang Tàu.

Quân Pháp chiếm dinh toàn quyền cũ ở Hà Nội, sau khi Lư Hán ra đi.

- 27/6/1946 : Tổng bãi thị, tổng đình công ở Hà Nội để phản đối Pháp chiếm đóng dinh toàn quyền cũ.

- 6/7/1946 : Hội nghị Việt-Pháp ở Fontainebleau khai mạc. Trưởng phái đoàn Việt Nam là ông Phạm Văn Đồng. Chương trình nghị sự: Việt Nam và Liên hiệp Pháp, tổ chức Liên bang Đông Dương, sự thống nhất của 3 kỳ và trưng cầu dân ý, ...

- 8/7/1946 : Quân Pháp chiếm đóng Lạng Sơn ; 17/7/1946, chiếm đóng Đồng Đăng.

- 23/7/1946 : Trong khi hội nghị Fontainebleau đang họp, thì D'Argenlieu, cao uỷ Pháp, triệu tập ở Việt Nam một Hội nghị liên bang, gồm các đại biểu « Việt Nam »(!?), Nam Kỳ quốc(!), Tây Kỳ(!), Lào và Miên. Đại biểu do cao uỷ chỉ định! (Phải chăng đối với D'Argenlieu, Việt Nam nghĩa là Bắc Kỳ+Trung Kỳ, vì xưa kia triều đình vua Tự Đức đã ký nhường Nam Kỳ cho Pháp?).

- 10/9/1946 : Tại Hội nghị Fontainebleau, Pháp không chịu dứt khoát về vấn đề Nam Bộ. Hội nghị thất bại.

Cùng ngày, tại Hải Phòng, Pháp lập ban kiểm soát thuế quan.

- 14/9/1946 : Ở Paris, để cứu vãn tình thế, Hồ chủ tịch đang đêm, đến nhà riêng của Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại (nghĩa là bộ thuộc địa cũ), để ký Thỏa ước tạm thời (Modus vivendi).

- 18/9/1946 : Đội quân cuối cùng của Tàu Tưởng ở Hải Phòng xuống tàu về nước.

- 18/10/1946 : Trên đường từ Pháp về, Hồ chủ tịch gặp lại D'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh.

- 30/10/1946 : Lệnh ngưng bắn nhau được ban hành ở Nam Bộ.

- 11/11/1946 : Hồ chủ tịch gửi cho thủ tướng Pháp Bidault lời phản kháng về việc Pháp đơn phương tổ chức phòng thuế quan và kiểm soát ngoại thương tại Hải Phòng.

- 20/11/1946 : Xung đột ở Hải Phòng giữa quân Pháp và tự vệ, lý do đưa ra là vì có một vụ việc kiểm soát thuế quan.

- 23/11/1946 : Đại tá Dèbes, chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng, đòi phía Việt Nam rút hết quân ra khỏi thành phố. Pháp bắn trọng pháo và dùng cả không quân ném bom, phá hủy nhiều nhà, rất nhiều người chết và bị thương. Con số người chết phía Việt Nam sau này có nguồn ước lượng là 6000, hay hơn thế.

- 27/11/1946 : Tướng Valluy, quyền cao ủy và quyền tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp (tạm thay D'Argenlieu về Pháp ít ngày), ra lệnh cho quân Pháp chiếm toàn bộ Hải Phòng và kiểm soát thuế quan.

- 30/11/1946 : Quân Pháp và tự vệ xung đột ở Đồ Sơn.

Quốc hội Việt Nam kêu gọi Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp ổn thỏa các vụ xung đột ở Việt Nam.

- 3/12/1946 : Lính dù Pháp (lính mũ đỏ) phá Phòng thông tin ở Hà Nội, và có những hành động khiêu khích, như dàn hàng ngang đi giữa đường trêu ghẹo người đi đường.

-8/12/1946 : Các đoàn thể kêu gọi dân chúng đoàn kết ủng hộ Chính phủ, ở Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ qua nhà kia cho dễ di chuyển, và tản cư ra khỏi thành phố.

- 15/12/1946 : Hồ chủ tịch gửi thông điệp cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội, vừa được Quốc hội Pháp chỉ định làm thủ tướng mới, đề ra một số điều cụ thể để giải quyết tình hình bế tắc trước mắt. (Bức điện này cũng như các bức điện trước đó, bị Bộ chỉ huy của quân đội viễn chinh Pháp giữ lại ở Sài Gòn, và chỉ được chuyển về Paris, 11 ngày sau, khi chiến tranh đã lan rộng).

Cùng ngày, quân Pháp nổ súng, bắn vào công an tại vườn hoa Hàng Đậu, ném lựu đạn ở phố Hàm Long, khiêu khích tự vệ ở phố Trần Quốc Toản.

- 17/12/1946 : Léon Blum lập xong chính phủ mới. Moutet vẫn làm bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, và tuyên bố là « có cảm giác là chưa bao giờ đô đốc D’Argenlieu tỏ dấu hiệu bất đồng với tôi về chính sách mà chúng tôi vẫn thi hành… », cái chính sách đó đã được D’Argenlieu khẳng định trước đông đảo nhà báo : « Phải cho dân Đông Dương biết rằng nước Pháp muốn có mặt ở Đông Dương. Nếu nước Pháp lưỡng lự hay trù trừ thì sẽ mất lòng tin ấy. Chúng ta phải đánh dấu ý muốn bằng cách duy trì lực lượng của ta ở đó ». (9)

Cũng ngày đó ở Hà Nội, lính Pháp và tự vệ xung đột phố Hàng Bún, 17 thường dân Việt Nam bị chết. Lính Pháp bắt cóc một số phụ nữ. Tại nhà máy điện Yên Phụ, nơi có tổ canh gác hỗn hợp Việt-Pháp, một lính Pháp bất thần nổ súng bắn chết một vệ quốc quân cùng đứng gác.

- 18/12/1946 : Thủ tướng Pháp Léon Blum cử bộ trưởng Moutet sửa soạn sang Đông Dương xem xét tình hình. (10)

Buổi trưa cùng ngày, bộ chỉ huy Pháp hạ tối hậu thư thứ nhất : « Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở đây sẽ bắt buộc phải dùng những phương tiện để bảo đảm sự an toàn của quân đội, của thường dân Pháp và của ngoại kiều. […] Những thứ gì có thể làm cản trở sự đi lại của quân đội Pháp sẽ phải phá hủy, nếu không thì quân đội Pháp sẽ tự phá lấy ». Buổi chiều cùng ngày, Bộ chỉ huy quân đội Pháp gửi tối hậu thư thứ nhì : « Trong ngày 18/12/1946, công an thành phố Hà Nội đã không làm tròn nhiệm vụ. Nếu tình trạng đó kéo dài thì quân đội Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội chậm nhất là vào sáng 20/12/1946 ».

- 19/12/1946 : Sáng sớm, Bộ chỉ huy quân đội Pháp hạ tối hậu thư thứ ba : « Phải tước vũ khí của tự vệ tại Hà Nội. Phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến. Phải trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố ».

Kiều dân Pháp được Bộ tư lệnh Pháp cho mật lệnh tập trung ở vài khu gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ. Lính Pháp bị cấm trại.

Khoảng 20 giờ, nổ súng. Toàn quốc Kháng chiến bắt đầu... (11)




Bùi Trọng Liễu


Chú thích :



(1)Nguồn : « Hai mươi năm qua: 1945-1964, sự việc từng ngày », Đoàn Thêm, nxb Nam-Chi Tùng-Thư, Sài Gòn 1966 ; « Leclerc et l’Indochine/Chronologie », trang trên mạng http//www.v1.paris.fr ; « Những chặng đường lịch sử», Võ Nguyên Giáp, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994 ; và các tài liệu khác dẫn trong chú thích dưới đây.

(2)Trong cuốn sách « Les Blancs s’en vont » (Người da trắng ra đi), nxb Albin Michel, Paris 1998, trang 35-39, tác giả Pierre Messmer – vốn là người theo De Gaulle từ đầu, sau này là thủ tướng Pháp (1972-1974) – tự bào chữa cho mình, và thú nhận rằng « Bản tuyên bố của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp», ngày 24/3/1945 (Déclaration du gouvernement provisoire de la République française, đây là chính phủ của tướng De Gaulle vào thời gian mới giải phóng nước Pháp sau khi bị Đức Quốc xã chiếm đóng 1940-1944), là một kế hoạch không-thể-chấp-nhận-được nhằm tái lập thuộc địa (un programme inacceptable de recolonisation). Theo kế hoạch đó, thì Liên bang Đông Dương sẽ gồm năm xứ : Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao miên và Lào, với một chính phủ đứng đầu là một viên toàn quyền người Pháp. Chính ông Messmer viết rằng : từ ngày đảo chính Nhật 9/3/1945, không một người Việt Nam nào chấp nhận sự trở lại đô hộ của Pháp như thuở trước, và ông [Messmer] không bao giờ hiểu được tại sao tướng De Gaulle thuở ấy lại chấp nhận một Bản tuyên bố tai hại như vậy (une telle déclaration calamiteuse). Theo ông Messmer, tác giả của Bản tuyên bố này là toàn quyền (gouverneur) Laurentie, lúc đó là vụ trưởng vụ chính trị ở bộ Pháp quốc hải ngoại tức là Bộ thuộc địa (directeur des affaires politiques au ministère de la France d’outre-mer) ; nhưng chính ông này sau đó rất ân hận, và tìm cách « diễn giải » văn bản này theo một hướng tiến bộ hơn vào tháng 9 năm 1945, và do đó đã bị ông De Gaulle khiển trách nặng nề. Rồi ông kết luận rằng, rốt cục, ông chỉ thở phào hoàn toàn đồng ý với ông De Gaulle [về thái độ của nước Pháp đối với Đông Dương] ngày 1/9/1966, khi ông De Gaulle tuyên bố tại Pnom Pênh: « […] không có khả năng là các dân tộc châu Á chấp nhận sự áp đặt của người ngoài đến từ bên kia bờ biển Thái Bình Dương [nghĩa là Mỹ], dù cho với ý định nào và với vũ lực nào ». [Nguyên văn : […] il n’y a, d’autre part, aucune chance pour que les peuples d’Asie se soumettent à la loi de l’étranger venu de l’autre rive du Pacifique, quelles que puissent être ses intentions et si puissantes que soient ses armes]. Nghe ông Messmer kể như vậy, thì ông là người thức thời, nhất là khi ông luận về việc những người Pháp thời 1945-46 mù quáng từ chối cái từ « độc lập » mà mọi người Việt Nam ai ai cũng tha thiết. Có điều lạ là ông lại chính là một người đã giữ những chức vụ quan trọng liên quan đến việc người Pháp trở lại Đông Dương lúc đó : trưởng đoàn quân sự liên lạc về hành chính ở Viễn Đông (chef de la mission militaire de liaison administrative en Extrême Orient), nhảy dù xuống Bắc Bộ vào tháng 9 năm 1945, đoàn viên « đắc lực » của phái đoàn Pháp ở hội nghị Đà Lạt (10/4-11/5/1945) và hội nghị Fontainebleau (6/7-10/9/1946), đoàn viên của phái đoàn bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Marius Moutet đi thị sát Đông Dương (27/12/1946 tám ngày sau ngày toàn quốc kháng chiến), chánh văn phòng của cao ủy Đông Dương Bollaert bốn tháng sau, … Nhưng dù sao, ông Messmer và ông De Gaulle, đã « lương thiện » hơn vô số những người khác, không mảy may chấp nhận sự sai lầm của mình.

(3)đã kể trong chú thích (2).

(4)Về việc toán Castella (thiếu tá đặc phái viên của De Gaulle, nhảy dù xuống Hiền Sĩ cách Huế 25 km về phía Bắc vào cuối tháng 8/1945) bị bắt, có thể xem thêm trong cuốn “Người lính già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường số 4 anh hùng”, nxb Trẻ, 2004, (trang 88-94), ông Việt viết : Ngày 26/8/1945, đồng chí Hoàng Anh (nguyên bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên) cùng anh Phan Tử Lăng và một số cán bộ ra tận nơi xem xét tình hình.[…]. Chúng tự xưng là phái bộ của Đồng Minh, nhảy dù xuống để thi hành một sứ mệnh. Chưa phân biệt thực hư, đồng chí Hoàng Anh vẫn để bọn quân nhảy dù ở nguyên khu nhà chúng chiếm đóng […]. Linh tính cho một nguy cơ lớn sắp xảy đến, nếu hành động chậm trễ […]. Anh em đều thống nhất chủ trương mời một cuộc họp khẩn cấp toàn bộ lớp Thanh niên tiền tuyến. Anh em bàn tán rất sôi nổi và cử ngay một nhóm chỉ huy […]. Vì phải hành động hết sức khẩn trương, bí mật, nên không xin ý kiến hay phép của bất cứ ai.[…]. Anh em Thanh niên tiền tuyến biên chế thành 3 tiểu đội […], đi đều bước thẳng vào nơi đồn trú của tốp nhảy dù. […]. Ba đại diện tiến lên. […] tên quan tư [thiếu tá Castella] tiến lên như để đón tiếp quân ta. Khi giáp mặt, anh Lê Thiệu Huy dõng dạc nói to bằng tiếng Pháp : « Nhân danh Ủy Ban khởi nghĩa Trung Bộ, tôi chuyển đến ông một bức thư ». Khi tên quan tư kính cẩn đưa hai tay ra nhận thư, thì có một phát súng Mousqueton nổ ầm vang, làm chấn động cả bầu không khí. Lập tức anh Nguyễn Thế Lương rút khẩu súng lục từ trong túi, hét lên : « Đưa tay lên ! Các anh là tù binh ! ». Cùng lúc ấy, tôi và cả phân đội xông lên, bao vây kín bọn lính nhảy dù […]. Trong cặp của tên quan tư Castella […] tôi tìm ra một mật lệnh hết sức quan trọng , mà đến nay, tôi còn nhớ rành rọt từng câu chữ : [dịch] « Quan tư Castella có nhiệm vụ bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, với các lực lượng Pháp hải ngoại (FFE) và các lực lượng Pháp nội địa (FFI), để tổ chức chiếm lĩnh các công sở và thành lập [lại] chính quyền thuộc địa [bảo hộ] ở miền Trung Việt Nam. Tất cả các FFE và FFI đều phải đặt dưới quyền chỉ huy của quan tư Castella. [Ký] De Gaulle » . (Những chữ thẳng trong ngoặc [.] là của tôi (BTL) thêm vào cho rõ nghĩa). « Đồng chí Trần Hữu Dực hết sức vui mừng và hết lời khen ngợi chiến công vừa mới đạt được. Đồng chí nhận xét : Chỉ cần ta bị chậm một, hai ngày là bọn Pháp nhảy dù [này] có thể liên lạc được với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, các lực lượng Pháp ở hải ngoại, ở nội địa […]. Nếu lúc ấy mà ta phát động tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, thì có thể hàng ngàn, vạn sinh mệnh đồng bào sẽ ngã gục dưới họng súng quân thù . [Hết phần trích].

Về việc bắt các ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh, ông Việt viết (trang 107-108) [trích]: Tôi và anh Nguyễn Thế Lương phụ trách bắt Ngô Đình Khôi. Anh Phan Hàm và Hà Đồng phụ trách bắt Phạm Quỳnh.[…] Tôi còn nhớ lúc ấy khoảng 11 giờ, bố con ông Ngô Đình Khôi đang ngồi bàn ăn cơm. […] Hai bố con đứng dậy ra đón. Tôi đưa tay chào nhà binh, đưa một phong bì thư và nói : " Vâng lệnh Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế, tôi đến mời hai ông lên gặp Ủy ban khởi nghĩa. Xin mời, xe đã sẵn sàng". [Đáp] : "Dạ dạ, xin vâng, vì đang ăn dở, xin phép ăn nốt bát cơm". Tôi đồng ý ngay và mời cứ ăn. Sau bữa cơm, hai bố con vào mặc áo the, khăn xếp chỉnh tề. Tôi mời ra xe. Trên đường về, xe không đến Tòa Khâm, trụ sở lúc ấy của Ủy ban khởi nghĩa, mà theo kế hoạch về thẳng nhà giam Phủ Doãn. Đến nơi, tôi bàn giao hai vị khách quý, ký vào giấy giao nhận rồi ra về. Số phận của hai cha con ông Ngô Đình Khôi về sau ra sao hoàn toàn tôi không hay biết. Tôi chỉ làm nhiệm vụ của người lính. Nhóm anh Phan Hàm cũng hoàn thành nhiệm vụ bắt ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng về tập trung ở nhà giam Phủ Doãn. [Hết phần trích].

(5) Về chi tiết sự việc này, xin xem bài « Nhân việc đưa hài cốt cựu hoàng Duy Tân về nước » mà tôi đăng trong báo Đoàn Kết (bộ cũ) số 393, 1987, dưới bút hiệu H.B., và báo Tổ quốc đăng lại trong số tháng 4/1988. Tôi có bổ sung sau đó và đăng lại trong cuốn sách của tôi « Tự sự của người xa quê hương », nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004. Trong « Mémoires de guerre (1940-1945) », tập 3, nxb Plon, 1959, trang 230 và 231, ông De Gaulle viết: « Aux fins qui pourraient être utiles, je nourris un dessein secret. Il s'agit de donner à l'ancien empereur Duy-Tan les moyens de reparaitre, si son successeur et parent Bao-Dai se montre, en définitive, dépassé par les évènements.[...]. C'est une personnalité forte. [...]. Le 14 décembre, je le recevrai pour voir avec lui, d'homme à homme, ce que nous pourrons faire ensemble. Mais quelles que soient les personnes avec qui mon gouvernement sera amené à conclure les accords, je projette d'aller moi-même les sceller en Indochine dans l'appareil le plus solennel, quand le moment sera venu ».

(6)Có thể xem thêm cuốn sách « Chiang Kai-Shek, De Gaulle contre Hô Chi Minh », Viêt-Nam 1945-1946, của Lin Hua, nxb l'Harmattan 1994.

(7)Thuở đó, Hồ chủ tịch có câu nói tiếng Pháp : « Plutôt flairer la crotte des Français pendant cinq ans, que flairer celle des Chinois pendant mille ans » (Thà ngửi phân Pháp trong 5 năm, còn hơn ngửi phân Tàu trong ngàn năm). Câu này, các sách và tài liệu ở Việt Nam nay không ghi lại vì những lý do dễ hiểu, nhưng ông Messmer có nhắc lại trong cuốn sách đã dẫn trên của ông ta, và ông ta dùng chữ « merde » (cứt) khiễm nhã hơn chữ « crotte » (phân) nhiều. Riêng tôi, thuở ấy còn nhỏ (chưa đầy 12 tuổi), nhưng tôi còn nhớ rõ ở Hà Nội thiên hạ kháo nhau về câu nói tiếng Pháp ấy và đa số cho là Hồ chủ tịch có lý. Tất nhiên, trong khung cảnh lúc ấy, « Tàu » đây là Tàu Tưởng, chưa phải là « anh em môi [hở] răng [lạnh] » sau này, nhưng gì gì đi nữa, vẫn có câu hỏi giả thử như lúc ấy mấy chính khách quốc gia theo « Hoa quân nhập Việt » mà thành lập chính phủ, liệu nước Việt Nam ngày nay có là một thứ Tây Tạng không ?

(8)Hình như lá cờ của « Nam kỳ quốc » này là màu vàng với 3 sọc màu lam chạy suốt chiều dài. Nếu đúng vậy thì nó khác với lá cờ « quẻ càn », màu vàng với 3 sọc đỏ chạy suốt chiều dài, của « Quốc gia Việt Nam » thời ông Bảo Đại trở lại ký kết với Pháp trong vùng tạm chiếm, và sau này là cái cờ của « Việt Nam Cộng hòa » của chế độ ông Ngô Đình Diệm và sau đó.

(9)Về thái độ và cách cư xử của Léon Blum trong những ngày này, có thể xem thêm lời chứng của ông Raymond Aubrac trong cuốn hồi ký của ông : « Où la mémoire s’attarde », nxb Odile Jacob.

(10)Ngày 22/12/1946 Moutet mới lên đường, và 26/12/1946 đến Sài Gòn. Dù sao, Moutet cũng là một trong đám người đẩy Việt Nam vào thế cùng. Ngày nay cũng còn có người cả tin nghĩ rằng giá phía Việt Nam « kiên nhẫn » đợi thêm vài ngày (vì ông Léon Blum đã lập chính phủ mới) thì không xảy ra chiến tranh !

(11) Những năm gần đây, có những sử gia hoặc nhà báo, nhà văn nước ngoài đặt mốc khởi đầu chiến tranh Pháp-Việt vào thời điểm khác, thí dụ như vào ngày 23/11/1946 khi quân đội Pháp nã pháo vào Hải Phòng. Nhưng những lý luận loại này có phần khiên cưỡng, bởi vì : Hoặc là chiến tranh bắt đầu khi có đụng độ chết người, thì sự đó đã xảy ra ở thời điểm khác rồi, hoặc là chiến tranh chỉ kể bắt đầu từ lúc nổ súng ở khắp mọi nơi (như vậy chiến tranh chỉ có thể kể từ 19/12/1946), còn nếu kể chiến tranh bắt đầu từ lúc có cuộc « đụng độ chết nhiều người », vậy thì đặt cái « chỉ tiêu » con số người chết là bao nhiêu để có thể kể là chiến tranh bắt đầu từ vụ việc Hải Phòng ? Hay là chiến tranh Pháp-Việt thực ra đã bắt đầu từ ngày quân viễn chinh Pháp đổ bộ vào Nam Bộ (nếu coi Nam Bộ hoàn toàn là đất của Việt Nam, theo cách nhìn của người Việt Nam), hoặc là chiến tranh Pháp-Việt đã bắt đầu từ ngày quân Tàu Tưởng rút hết đi phía Bắc để cho quân Pháp vào thay thế, nghĩa là từ ngày 25/6/1946 khi tướng Lư Hán và bộ hạ rút về Tàu (nếu coi Nam Kỳ – đất mà triều đình nhà Nguyễn đã ký nhường cho Pháp làm thuộc địa – « hơi » khác Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ) ? Ngoài ra, cũng có những tác giả, thí dụ như nhà văn Antoine Audouard, trong bài « L'Indochine, ni gloire ni honte » (Đông Dương, không vinh quang mà cũng không hổ thẹn ), đăng trên báo Le Monde ngày 27/11/2006, cho tôi cảm tưởng là ông ta đem chuyện sau, để giảm trách nhiệm của chuyện trước, khi ông ta viết : « Avec cynisme, l'excellent démocrate qu'est le président Abdelaziz Bouteflika l'a bien compris, qui nous force au silence sur ses crimes présents au nom de nos crimes passés ; les Vietnamiens n'agissent pas autrement, signant avec leurs ennemis d'hier des pactes économiques ou financiers qui enterrent non seulement un regard sur des millions de victimes de ce qui fut aussi une guerre civile, mais aussi les droits politiques fondamentaux de leurs citoyens d'aujourd'hui » (tóm tắt đại ý là Việt Nam – cũng như tổng thống Bouteflika nước Algérie ngày nay – dùng chuyện những tội ác ngày xưa của chúng ta [Pháp] để buộc chúng ta phải im lặng về những tội ác ngày nay [Việt Nam] đối với hàng triệu nạn nhân của một cuộc chiến tranh, mà cũng là một cuộc nội chiến, và đối với những quyền chính trị cơ bản của công dân họ). Viết vậy, khác nào như « viết lại lịch sử », hay là « viết sử-giả-tưởng (histoire-fiction) ». Vậy thì cũng có thể nào viết : « Nếu » Pháp và Việt Nam thuở đó mà cộng tác thành thực, thì đã chẳng có quốc trưởng Bảo Đại, đã chẳng có việc 1950 cụ Hồ phải đi Trung Quốc, Liên Xô để gặp Mao và Staline, rồi đã chẳng có chỉnh quân, chỉnh huấn, chẳng có cải cách ruộng đất, chẳng có hiệp định Genève chia cắt, chẳng có chế độ ông Diệm, chẳng có thuyền nhân, và biết đâu cũng chẳng có cả CHXHCNVN, và như vậy thì chẳng có hàng triệu nạn nhân của một cuộc chiến tranh và chẳng có vấn đề trù dập những quyền chính trị cơ bản ? Ai đáng trách ai ?

http://213.251.176.152:8080/diendan/phe-binh-nghien-cuu/1946-2006/

-----

HCM vào đcs quốc tế từ thập niên 1920 !!
HCM nhận tiền của cs quốc tế để làm việc : 100 $usd/tháng
Làm gì mà có thành thật ở HCM và Pháp: 2 bên lợi dụng lẫn nhau !

Câu hỏi, Lý luận này cần xem lại !!
Gặp mâu thuẫn về mục đích thầm kín và thời biểu thì sẽ đánh nhau thôi !
------
Re: Một cuộc hỏi cung? (Điểm: 0)
by nói leo (đị cầu) ngày 17-03-2006
nói leo
đị cầu

Ngày 11/11/1945, Hồ CHí MInh long trọng tuyên bố giải tán đảng cộng sản và cam kết không theo đuổi ý hướng chính trị nào ngoài ước mong vì dân vì nước. Vì thế mà sau này nhân dân Hà nội, nhân dân Việt nam đã đồng ý cho Hồ lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Pháp. Nếu như nhân dân Việt nam may mắn sớm biết được hành động trên của Hồ chỉ là "màu săc yêu nuóc", một mưu mô gian xảo của Hồ chí Minh, nếu như nhân dân Việt nam biết Hồ sẽ giết nguời hàng loạt qua cái gọi là "cải cách ruộng đất" thì chắc chắn sẽ không có Hồ & đcsvn trong vai trò lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Pháp ấy, "thì hồ chí minh và vài chục tên đàn em lấy gì để đánh nhau với pháp đây". (Nguồn: tố hữu, hà nội) .

Nói cách khác, sự việc HCM tuyên bố giải tán đảng công sản Việt nam như nêu trên để lừa gạt nhân dân Hà nội, lừa gạt nhân dân Việt nam hầu đươc nhân dân VN chấp nhận cho Hồ và đcsvn tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, đã cho thấy một sự thật không thể chối cãi là ngay từ ngày đàu tiên nhân dân Việt nam đã không ưa thích, không ham muốn, không chấp nhận Hồ & cộng sản & chủ nghĩa xã hội, hoàn toàn trái với luận điệu bịp bợm sau này của cộng sản những là toàn dân VN đồng lòng theo Hồ và đảng csvn chống Pháp để sau đó đi theo Hồ trên con đuòng "xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Nếu sau đó đã có nhũng lời, chữ hoan hô HCM & cộng sản được nói lên thì hoặc vì những bát cơm bị cộng sản giựt ngang, treo lơ lửng ngoài tầm tay người dân nghèo khó để dụ dỗ, lừa gạt họ nói lên, hoặc vì những họng súng, luỡi lê của những tên khủng bố aka công an nhân dân kè kè bên hông, sau lưng người dân khiến họ phải nói lên, hoặc vì kẻ nào đó đưọc cùng đứng trong hàng ngũ một thiểu số những đảng viên có chức có quyền để đuọc quyền thả ga hiếp đáp trấn lột nhân dân, ăn cắp quốc khố.

Vả chăng, chính là Hồ chí Minh và đcsvn đã chào mời Pháp vào VN. Quân thực dân Pháp đến Hà nôi ngày 19-5-1946 đuọc Hồ & đcsvn long trọng tiếp đón. Để che dấu hành động quỵ luỵ chào đón Pháp, để ép buộc nhân dân hà nội phải treo cờ đỏ sao vàng mừng đón quân Pháp như quân Pháp mong muốn, Hồ & đcsvn đã lừa bịp nhân dân Hà nội, bằng cách phao tin "ngày 19-5 là sinh nhật Bác hồ, nhân dân phải treo "quốc kỳ" mừng sinh nhật bác".

dcv=

-----

Lịch sử VN cận đại: Đôi dòng về Ngày "Quốc Khánh" 2 tháng 9 by quengheo

TÓM TẮT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CẬN ĐẠI VN

No comments: